Tết Táo quân vào ngày 23 tháng Chạp - người ta coi đây là ngày  “vua bếp” lên chầu Trời để tâu lại việc bếp núc, làm ăn, cư xử của gia đình  trong năm qua. Theo tập tục hàng năm ông Táo phải thu xếp lên trời vào ngày 23  tháng chạp để tâu bày mọi việc dưới trần thế với Ngọc Hoàng.
Bởi thế nên,  trong ngày này, mọi gia đình người Việt Nam đều làm mâm cơm đạm bạc tiễn đưa  “ông Táo “. Cứ phiên chợ 23 tháng Chạp, mỗi gia đình thường mua 2 mũ ông Táo, 1  mũ bà Táo bẵng giấy và 3 con cá chép làm “ngựa” (chuyện cá chép hoá rồng) đế Táo  quân lên chầu trời.

Sau khi cúng trong bếp, mũ được đốt và cá chép được  mang ra thả ở ao, hồ, sông… Ngày ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu tiên  của Tết Nguyên đán. Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu dọn dẹp nhà cửa,  lau chùi đồ cúng ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi  trang trọng để chuẩn bị đón tết.
Tục dựng cây  nêu
Có thể dân thành phố ít có điều kiện thấy và làm công việc này. Đi xa một  chút về vùng ngoại ô bạn sẽ được tận mắt thấy và tận tai nghe nói về cổ tục này.  Cây nêu ở đây là cây tre dài khoảng 2,5 – 3 mét (theo wikiped cây nêu là một cây  tre cao khoảng 5–6 mét), được dựng trước sân nhà vào buổi tối trước giao thừa.  Trên ngọn nêu có buộc nhiều thứ (tùy từng địa phương) như cái túi nhỏ đựng trầu  cau và ống sáo, những miếng kim loại lớn nhỏ.
Khi có giỏ thổi chúng chạm vào nhau và phát ra tiếng leng keng như tiếng  phong linh, rất vui tai. Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm  những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi  đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu… Vào buổi tối, người ta treo một  chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào  đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ  hoặc những điều không maỵ.
Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời  chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo quân, ma quỷ thường nhân  cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày  mùng Bảy thì cây nêu được hạ xuống. Một vài năm trở lại đây thường thấy mọi  người bán mía để tượng trưng thay cho cây nêu. Thấy cũng hay hay vì tết xong có  thể hạ nêu xuống chén :D.
Tục chơi hoa kiểng
Hoa là linh hồn, hoa là cảnh sắc thiên nhiên trang điểm cho đời, nếu thiếu  hoa thì còn gì là ngày Tết nữa. Vì vậy chưng hoa kiểng ngày Tết là một nhu cầu  làm đẹp của dân tộc ta có truyền thống từ ngàn xưa, hơn nữa nó còn mang đậm  nhiều ý nghĩa.
Trên bàn thờ gia tiên cắm những bông vạn thọ, trường xanh… với sắc hoa vàng  rực, đã nói lên được điều ước mong của mọi người là năm mới khoẻ mạnh và trường  thọ. Chưng cây hoa đào, hoa mai, với sắc đỏ thắm của đào và những cánh mai vàng  rực là những ước mơ hy vọng về sự đổi mới của mọi người, của gia đình, của Tổ  quốc - thể hiện phong cách lạc quan, tự tin.
Tục xông đất ngày Tết
Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc tết chừng năm mười phút chứ  không ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy  thông suốt. Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước, người  được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt  năm tới. Thời xưa chỉ có 2 cách chọn người tốt vía xông đất ngày đầu năm.
Kẻ làm quan, người có học chọn người xông đất có tuồi hợp tuổi với chủ nhà.  Người xông đất phải là đàn ông trụ cột trong gia đình. Đối với người dân lao  động thì đơn giản hơn nhiều. Người được chọn xông đất phải khoẻ mạnh, tốt tính,  và gia cảnh khấm khá, hoà thuận…
Tục chưng mâm ngũ quả
Ngày Tết, ngoài các loại thức ăn cúng ông bà tổ tiên trên bàn thờ nhất thiết  phải chưng mâm ngũ quả. Chuối là cái nền cho mâm ngũ quả, thứ đến là bưởi hoặc  phật thủ, hai loại này bắt buộc phải có. Ba loại còn lại phụ thuộc thì tuỳ loại  quả có ở mỗi vùng mỗi khác nhau. Nhưng chung lại, mâm ngũ quả là những loại trái  cây chứa nhiều chất dinh dưỡng, đáp ứng đủ cho nhu cầu hoạt động của con người.  Vì vậy, chưng mâm ngũ quả ngày tết là một ý  nghĩa nói lên ước vọng của gia đình bước sang năm mới được no đủ.
Ðã gọi là ngũ quả thì nhất thiết phải là 5 loại quả. Nhưng các vùng, các miền  do mùa xuân hoa trái khác nhau, nên mâm ngũ quả cũng khác nhau như: chuối, bưởi,  phật thủ, dưa hấu, cam, quýt, dừa, na, hồng xiêm, táo…
Mỗi quả mang một ý nghĩa:
Chuối - phật thủ: như bàn tay che chở.
Bưởi - dưa hấu: căng tròn, mát lành, hứa hẹn năm mới đầy ngọt ngào, may  mắn.
Hồng - quýt: rực lên màu sắc mạnh mẽ, tượng trưng cho sự thành đạt.
Ở vùng Thủ Dầu Một, ngày Tết hầu như nhà nào cũng có mâm lễ: Long - Lân - Quy  - Phụng. Kết từ hoa quả - tứ linh hoàn toàn mang tính hình tượng như hoa quả kết  thành “vật thực”, thể hiện lòng thành của con cháu tưởng nhớ gia tiên, cảm tạ ơn  trời, ơn đất.
Mâm ngũ quả trong Nam cũng khác so với ngoài Bắc. Trên mâm ngũ quả ở ngoài  Bắc thường có : Bưởi, đào, quýt, chuối, hồng. Có khi người ta thay bưởi bằng  phật thủ hoặc lựu Mâm ngũ quả trong Nam vẫn cứ giữ nguyên truyền thống là mãng  cầu, sung, dừa xiêm, đu đủ, xoài mà các bà thường quan niệm sơ đẳng là “cầu -  sung - vừa - đủ - xài”.
Tục gói Bánh Chưng
Bánh chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng trái Đất, âm. Bánh dầy hình  tròn, màu trắng, tượng trưng Trời, dương, thể hiện triết lý Âm Dương, Dịch, Biện  chứng Đông Phương nói chung và triết lý Vuông Tròn của Việt Nam nói riêng.
Bánh chưng âm giành cho Mẹ, bánh dầy dương giành cho Cha. Bánh chưng bánh dầy  là thức ăn trang trọng, cao quí nhất để cúng Tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống  nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của  cha mẹ.
Theo truyền thuyết, bánh chưng bánh dầy có từ thời Vua Hùng Vương thứ 6, sau  khi phá xong giặc Ân.Vua muốn truyền ngôi cho con, nhân dịp đầu xuân, mới hội  các con mà bảo rằng: ”Con nào tìm được thức ngon lành để bày cỗ có ý nghĩa hay  thì ta truyền ngôi cho”.
Tục chúc Tết
Tết  Nguyên Đán là một dịp để cho mọi thành viên trong gia đình vui vầy sum họp.  Đó là thời gian bày tỏ sự thương yêu thấm thiết và mong muốn cho mọi người được  như ý. “Mồng một là Tết nhà cha”: sáng mùng một sau khi lễ gia tiên thì cha mẹ  được mời ngồi vào ghế để cho con cháu lần lượt mừng tuổi chúc Tết.
Ngày xưa họ còn được con cháu tế sống với hai lạy hai vái. Để mừng tuổi con  cháu là những bao lì xì đỏ tươi làm rạng ngời ánh mắt bọn trẻ. “Mồng hai nhà  mẹ”: cha mẹ và con cháu phải sang nhà ngoại để mừng tuổi chúc Tết. Cũng tuần tự  những nghi thức như bên nội vậy. Sau đó thì nán lại để ăn cỗ đầu xuân nhằm thắt  chặt tình cảm giữa hai gia đình.
“Mồng ba Tết thầy”: sau công ơn đấng sinh thành dưỡng dục là ơn dạy dỗ của  thầy cô. Đến mừng tuổi chúc Tết thầy cô là một phong tục nói lên tư cách đạo đức  của một con người. Tóm lại, tục chúc Tết là một nét văn hoá thể hiện tình cảm  sâu sắc và sự quan tâm, lòng hiếu thảo trong một thứ tự phải có của sự tồn tại  và phát triển của một dân tộc.