Lúc đức Phật còn tại thế cũng như sau khi ngài tịch diệt,   việc thờ Phật, tôn kính Phật được thể hiện qua việc nghiêm trì giới   luật, việc nổ lực thực hành những di huấn của ngài. Đây là điều then   chốt trong việc thờ Phật. 
THỜ HÌNH TƯỢNG PHẬT
Để  thể hiện lòng tôn kính với vị đạo sư, Phật tử có thể vẽ họa hình  tượng  đức Phật để tôn thờ tùy ý. Trong truyện ký có thuật một câu  chuyện, thời  đức Phật còn tại thế, một hôm ngài dùng thần thông lên cõi  trời thuyết  pháp cho thân mẫu và chư thiên liên tiếp trong ba tháng.  Vua Vu Điền,  một trong những vị vua thâm tín phật pháp và thích được  hầu cận đức  Phật, thấy Phật đi lâu quá không về đem lòng nhớ thương bèn  mướn một họa  sĩ danh tiếng rồi diễn tả lại tất cả hình vóc, tướng mạo  của đức Phật  để vị họa sĩ vẽ lại chân dung ngài. Chân dung của đức Phật  được vẽ rất  sống động. Có những lúc vua Vu Điền đối diện trước chân  dung Phật, ông  có cảm giác như Phật đang hiện hữu thuyết pháp như mọi  ngày.
Sau  ba tháng đức Phật trở về, vua Vu Điền mang chân dung của đức  Phật đến  và thuật lại câu chuyện, đức Phật mỉm cười và làm thinh. Làm  thinh là  một trong những cách mà đức Phật thường dùng để chấp nhận việc  làm của  đệ tử. Việc tôn kính hình tượng của đức Phật bắc đầu từ đó.  Hình thức  tôn kính này được đại chúng hóa trong môn đồ của đức Phật kể  từ sau ngài  tịch diệt dẫn đến ngày nay.
TẠI SAO THỜ PHẬT
Như  câu chuyện trên cho thấy, thờ Phật ban đầu chỉ là biểu lộ sự nhớ  thương  của môn đệ đối với đức Phật trong lúc vắng ngài, dần dần dẫn  đến sự tôn  kính và tri ân.
Trong  gia đình, con cháu chưng thờ di ảnh của ông bà, cha mẹ thường  biểu lộ  tình thương qua lòng hiếu thảo hơn là sự tri ân và tôn kình.  Dân tộc thờ  các vị anh hùng, biểu lộ sự tri ân và ngưỡng mộ hơn là  thương nhớ và  tôn kính. Tín đồ của một tôn giáo đối với vị giáo chủ của  mình thường  biểu lộ trọn vẹn sự tôn kính tuyệt đối hơn những lảnh vực  trên. Là Phật  tử, hiểu đức Phật và học đòi theo lời dạy của ngài, thờ  Phật ít ra cũng  đủ ba phương diện: tri ân, ngưỡng mộ và tôn kính.
Tri ân
Phật  tử tri ân đức Phật ngoài việc tô tượng, đúc chuông, cất chùa  còn phải  gia công học đòi lời dạy của ngài. Tập sống theo những hạnh mà  ngài dạy  để phát triển năng lực tinh thần.
Tri  ân đức Phật không phải vì chúng ta là tín đồ, mà vì một người đã  có một  ân đức sâu dày với toàn thể nhân loại. Chúng ta thờ Phật là để  luôn có  một tấm gương sáng trọn lành trước mặt để kiểm điểm từng tư  tưởng, từng  lời nói, từng hành động của chúng ta để tiến dần đến chân  thiện mỹ như  ngài vậy.
Hình  ảnh đức Phật trước mặt là một ngọn đèn trí tuệ đang đốt, chúng  ta sẽ  nương theo ánh sáng đó để soi rọi lại lòng mình và từ đó thắp  sáng lại  ngọn đèn của chính ta. Hình ảnh một đức Phật trước mặt sẽ tỏa  ngát hương  từ bi để nhắc nhở chúng ta phát triển hạnh từ bi saün có để  vơi bớt khổ  đau cho chính ta và tha nhân.
Đừng  bao giờ thờ hình ảnh đức Phật trước mặt với sự cầu cạnh Ngài  ban phúc  trừ họa hay để nương vào uy lực của Ngài làm những chuyện bất  lương. Nếu  thờ Phật với những mục đích như trên, thì không những chúng  ta tự hủy  báng đức Phật, mà còn tự tạo ra những tư tưởng không tốt cho  chính chúng  ta và tha nhân nữa.
Ngưỡng mộ
Phật  tử ngưỡng mộ đức Phật không phải dùng mọi danh từ tốt đẹp để  khen tặng  ngài; cũng không phải vẽ ra một đức Phật đầy phép lạ, đủ  quyền thi ân bố  đức. Mặc dù đức Phật có rất nhiều thần thông, nhưng  chưa bao giờ ngài  dùng thần thông để mê hoặc nhân gian, hoặc để khuyến  dụ người khác theo  ngài.
Câu  chuyện một thiếu phụ có một đứa con yêu quí duy nhất bị chết,  đến xin  đức Phật dùng thần thông cứu độ để đứa bé sống thêm theo mong  cầu của  người mẹ; thay vì đức Phật dùng thần thông để làm cho đứa bé  sống lại,  ngài đã khéo léo giảng giải định luật vô thường để người mẹ  không kéo  dài thêm sự khổ đau và ý thức sâu sắc về cuộc sống của con  người.
Vậy  Phật tử ngưỡng mộ đức Phật nên chú trọng vào ba đức tính đặc  biệt: Từ  bi vô ngần, trí tuệ vô biên, và hùng lực phi thường. Ba đặc  tính này  giúp chúng ta xây dựng hạnh phúc gia đình, hoán cải hoàn cảnh  xã hội.  Nói khác đi Bi, Trí và Dũng là ba tính cách đặc thù có hiệu  năng giúp  cho những ai hướng về chân thiện mỹ.
Đức  Phật là người duy nhất từ trước đến nay đã hoàn thành ba mục  tiêu trên.  Ngưỡng mộ đức Phật trong tinh thần đó tức là chúng ta đã tập  bước những  bước vững chãi trên con đường mà ngài đã đi.
Tôn kính
Tôn  kính đức Phật không phải chúng ta linh thiêng hóa đức Phật ra  hoặc đặt  đức Phật ra ngoài cuộc sống của chúng ta. Tôn kính đức Phật là  đặt một  niềm tin tưởng tuyệt đối rằng ngài là một bực hoàn toàn giác  ngộ. Ngài  là một bực thầy sáng suốt đưa đường dẫn lối và đầy đủ đức  hạnh để ta học  đòi hầu thăng tiến cuộc sống tâm linh của chúng ta.
Trong  kinh có ghi lại 10 danh hiệu khác nhau để tán thán và tôn kính  một bực  giác ngộ như đức Phật: Phật là đấng hoàn toàn tự tại với các  pháp, Phật  là đấng đáng được nhân gian và chư thiên cúng dường, Phật là  đấng biết  hết mọi tâm tánh của chúng sanh, Phật là bực đầy đủ cả phúc  đức và trí  tuệ, Phật là đấng đã điều phục mọi phiền não, Phật là một  đấng toàn  thiện, Phật là đấng đã giải thoát được chuổi dây triền phược  trong thế  gian, Phật là đấng cao tột, Phật là bậc thầy của nhân gian và  chư Thiên,  Phật là đấng thế gian hoàn toàn tôn kính. (Như lai, Ứng  cúng, Chánh  biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô  thượng sĩ, Điều  ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật thế tôn).
Là những người đang theo gót chân ngài, chúng ta nên tôn kính đức Phật trong chân tinh thần đó.
Thờ  Phật trong ba ý hướng trên, chúng ta sẽ thấy đức Phật gần gũi và  hiện  thực trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Bằng không, đức Phật  chỉ là  bóng mờ và giáo lý của ngài chỉ còn là một học thuyết suông.
THỜ ĐỨC PHẬT NÀO? 
Đã  là Phật thì không có vị nào cao vị nào thấp. Mức độ giác ngộ và  giải  thoát ngang nhau; nghĩa là đức Phật nào cũng trọn lành, cũng là  một tấm  gương sáng cả. Do đó, chúng ta có thể thờ bất cứ một vị Phật  nào mà  chúng ta cảm thấy thích. Mục đích của sự thờ Phật, như vừa nói,  không  phải để cầu cạnh mà là để noi gương lành.
Tuy  nhiên, chúng ta cũng nên tùy theo thời kỳ hóa độ của một vị Phật  để  thờ. Chúng ta đang ở vào thời kỳ hóa độ của đức Phật Thích Ca, thì  hình  ảnh và giáo lý gần gũi với chúng ta nhất là đức Phật Thích Ca. Vì  vậy  chúng ta thấy hình ảnh của đức Phật Thích Ca được thờ phổ thông  trong  tất cả các chùa Bắc Tông lẫn Nam Tông.
THỜ PHẬT Ở ĐÂU? 
Hình thức 
Tại  bất cứ một tư gia nào cũng có thể thờ Phật được cả. Trong nhà  nơi nào  mà chúng ta thấy trang nghiêm là nơi ấy có thể đặt một bàn thờ  Phật.  Việc trang nghiêm của một bàn thờ Phật cũng rất cần thiết. Việc  trang  nghiêm này không phải để trang nghiêm cho hình ảnh của đức Phật,  mà  chính là tạo một khung cảnh trang nghiêm cho chính chúng ta. Khi đối   diện trước một khung cảnh trang nghiêm, tâm chúng ta đễ gom về một  mối.  Tâm dễ gom về một mối thì trí tuệ dễ phát sinh. Đây là lý do duy  nhất  chúng ta cần có một bàn thờ Phật trang nghiêm trong nhà. Nói khác  đi,  hình thức là phương tiện ban đầu để đạt đến phần nội dung cần  thiết.
Nội dung
Một  người có một trình độ tu tập vững chãi, nghĩa là đã vượt qua mọi  hình  thức rườm rà, thì việc thờ tự đối với họ không còn cần thiết nữa.  Họ  không cần nương vào những đối tượng bên ngoài để nhắc nhở họ nữa,  mà lúc  nào hình ảnh đức Phật cũng hiện rõ trong tâm họ và đặc biệt là  cuộc  sống của họ hoàn toàn phù hợp với lời dạy của đức Phật. Những mẫu  người này là họ thờ Phật ngay trong lòng họ.
Trong  cuộc sống hàng ngày của họ là một bàn thờ Phật trang nghiêm.  Điều này  không phải là lý luận suông mà mỗi người học hỏi và tu tập  theo giáo lý  của đức Phật phải tự kiểm điểm lấy. Dĩ nhiên là một điều  khó.
Chưng hình Tượng Phật
Trên  đây là việc thờ Phật qua hai phương diện hình thức và nội dung.  Cũng có  lắm người không thích thờ tự mà chỉ thích có một bức hình Phật  đoan  nghiêm với vẻ mặt đầy tự tại và hoan hỷ để chưng trong nhà. Điều  này  không có gì trái với đạo và bất kính đối với đức Phật cả.
Tuy  nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý là việc treo chưng hình Phật  không phải  chỉ để làm tăng thêm phần thẩm mỹ trong phòng khách hay  trong phòng đọc  sách; mà việc treo hình Phật cũng phải hàm một ý nghĩa  như việc thờ ở  trên, nghĩa là để nhắc nhở chúng ta hướng thiện.
Chẳng  hạn như một bức hình Phật được treo ở phòng khách là để nhắc  nhở chúng  ta mỗi khi ngồi bàn luận những công việc gì nên nhắm đến việc  lợi mình  lợi người, hay ít nhất lợi mình nhưng đừng tổn hại đến ai.  Nhắc nhở  chúng ta khi có chuyện gì vui cũng không nên vui một cách thái  quá; nhắc  nhở chúng ta khi gặp chuyện buồn cũng không bi thảm lắm;  hoặc giả khi  bàn cải một vấn đề gì chưa vở lẽ đã đưa đến sự bất hòa,  cũng không nên  dùng những lời lẽ quá nặng nề để sát phạt lẫn nhau.
Treo  một bức hình ở trong phòng học hay phòng đọc sách là để nhắc  nhở chúng  ta một trong những hạnh đặc biệt của đức Phật là tinh tấn.  Tinh tấn là  một sự nổ lực liên tục cho đến khi công việc được viên mãn.  Tóm lại, dù  thờ Phật hay chưng hình thì hình ảnh đức Phật vẫn là tấm  gương sáng để  chúng ta soi rọi lại tâm tánh của chúng ta trong từng  giây phút một.
KẾT QUẢ CỦA SỰ THỜ PHẬT 
Nếu  thờ Phật với tất cả thành tâm thiện ý như vừa nêu trên, thì  chúng ta sẽ  gặt hái được những lợi lạc cả hiện tại lẫn vị lai. Trong  hiện tại, mỗi  chúng ta và cả gia quyến chúng ta, dưới hình ảnh hiền hòa  từ bi nhưng  chứa đầy nghị lực của đức Phật, chúng ta sẽ có một bầu  không khí đầm ấm,  bao dung nhờ ảnh hưởng đạo vị qua chân dung của ngài.
Từ  không khí gia đình này sẽ lan rộng ra đến xóm giềng; từ những cá  nhân  trong gia đình này sẽ ảnh hưởng đến những công dân ngoài quốc gia  xã  hội….
Kết  quả này thu hoạch được nhiều hay ít, mức độ thăng tiến tinh thần  cao  hay thấp, hoàn toàn tùy thuộc vào tỷ lệ thực hành của từng cá nhân  qua  nhân cách của đức Phật, chứ không phải đức Phật ban bố những kết  quả ấy  cho chúng ta. Mọi kết quả tốt được khai quật từ kho tàng vô tận  của  chính chúng ta.
Đức  Phật chỉ là người chỉ điểm. Phật tử nếu có phương tiện nên có  một bàn  thờ Phật trang nghiêm và thờ Phật với tất cả tinh thần như vừa  nêu trên.  Thờ Phật như vậy chính là tin Ngài và hiểu Ngài.