Không ai không mong cho con mình có được một cái tên gọi  hay, hoàn chỉnh, hàm ý phong phú, ngụ ý sâu sắc. Đặt tên cho con là một  học vấn có quan hệ với văn tự học, âm vần học, dân tộc học, sử học, văn  hóa tông pháp và nhiều tri thức khoa học hiện đại, chính vì thế nó đã  phát triển thành một môn mệnh danh học. 
NGUYÊN TẮC ÐẶT TÊN
Khi đặt tên cần tuân thủ các nguyên tắc:
Âm vần của tên gọi phải hay, đẹp: đặt tên là để người khác gọi, vì thế phải hay, kêu, tránh thô tục, không trúc trắc. 
Tiếp đến là tránh họ và tên cùng vần cùng chữ, tránh dùng nhiều chữ để dễ gọi.
 Khi đặt tên cần chú ý sự thống nhất hài hòa giữa họ và tên.
 Tên gọi phải có ngụ ý hay: điều quan trọng nhất của việc đặt tên là chọn  chữ nghĩa sao cho hay và lịch sự. Vì thế phải căn cứ vào thẩm mỹ, chí  hướng, và sở thích để chọn chữ nghĩa.
NHỮNG ĐIỀU CẦN CHÚ Ý KHI ÐẶT TÊN
Hạn chế đặt tên đơn, vì tên đơn dễ bị trùng tên.
 Khi đặt tên không nên chạy theo thời cuộc chính trị, đặt tên gọi mang mầu sắc chính trị.
 Khi đặt tên không nên dùng những từ cầu lợi, làm cho người khác có cảm giác đó là sự nghèo nàn về học vấn.
 Khi đặt tên không nên cuồng tín, nông cạn quá, ví dụ đặt tên là Vô Địch,  Vĩnh Phát… Đặt tên gọi tuyệt đối quá, cực đoan quá sẽ làm cho người  khác không có ấn tượng tốt.
Không nên đặt tên nam nữ, âm dương trái ngược nhau, nữ không nên đặt  tên Nam, nam không nên đặt tên Nữ để người khác dễ phân biệt.
 Tránh các tên dễ bị chế giễu khi nói lái như Tiến Tùng ra Túng Tiền.
 Các bạn ở nước ngoài nên tránh những tên gọi khi viết không dấu mang  những nghĩa khác của địa phương như chữ Phúc và Dũng trong tiếng Anh.
 Không nên tùy tiện đổi tên.
PHƯƠNG PHÁP ÐẶT TÊN
Có nhiều cách đặt tên, nhưng thường theo một mô thức nhất định:
 Lấy họ mẹ làm tên gọi hay chữ đệm.
 Kỷ niệm ngày tháng năm sinh: Mậu Dần, Thu Hương, Xuân Mai…
 Nữ giới thường đặt tên các loài hoa như Lan, Huệ, Quỳnh, Mai, Đào; bằng  tên các loài chim như Yến, Khuyên, Mi; bằng mầu sắc như Hồng, Thanh,  Lam; bằng các chữ trữ tình như Huệ, Nhàn, Vân, Hà, Diễm, Phương… bằng  các chữ thể hiện đạo đức của nữ giới như Trinh, Thục, Ái, Mỹ Linh, Khiết  Tâm…
Nam giới khi đặt tên nên thể hiện được sự cương trực, kiên cường,  trung hiếu, ý chí và hoài bão, ví dụ các chữ Đức, Lương, Công, Nghị,  Quang, Hiền thể hiện tính cách, đạo đức; các chữ Trường Giang, Sơn Hải,  Vạn Lý… thể hiện phong độ oai phong lẫm liệt, tư tưởng quyết thắng của  các tướng soái; các chữ Hiếu, Trung, Nghĩa, Chính thể hiện khí tiết con  người; Chí Kiên, Hướng Tiền thể hiện sự sáng suốt, ý chí kiên cường.
Tên con cháu thường do ông bà hoặc người có vai vế trong họ đặt cho.  Tục lệ này thể hiện rõ nét tính liên tục và tính truyền thống của văn  hóa gia đình. Ông bà hay những người có vai vế thường là người hiểu biết  rộng hoặc nắm được hệ thống tên của những thành viên trong dòng họ, tên  các vị cao niên trong làng, thậm chí tên thành hoàng làng, thần thánh…
Nhờ đó, việc đặt tên con cháu sẽ phù hợp với hệ thống, lại tránh  trùng lặp mắc tội “phạm húy”. Chính điều này quyết định việc đặt tên  thường được tiến hành trước khi đứa trẻ ra đời. Trong lúc người mẹ mang  thai, ông bà cha mẹ hầu như đã chuẩn bị đặt tên bé. Nhiều gia đình chọn  ngay những cái tên có giá trị “nối tiếp” với tên cha hoặc tên mẹ. Chẳng  hạn, tên cha là Khải, tên con là Hoàn; tên mẹ là Thuần, tên con là Thục…
Những gia đình phong kiến thường chọn cách đặt tên theo cung cách vua  quan xưa, tức là chuẩn bị một dãy tên để “đặt dần”. Thực tế đã có nhiều  gia đình đặt đúng và đủ các tên trong dãy.
Ngày nay, cách đặt tên đã có những thay đổi đáng kể. Mặc dù ảnh hưởng  của ông bà cha mẹ vẫn rất lớn, nhưng phải thừa nhận rằng cách nhìn nhận  về việc đặt tên đã thoáng hơn nhiều. Cách đặt tên con để thể hiện  nguyện vọng của gia đình vẫn còn. Bên cạnh đó, người ta có thể dùng ghép  tên quê cha và mẹ để đặt tên con. Thí dụ: cha quê Thái Bình, mẹ quê Hà  Nội, tên con là Thái Hà.
Trước đây, ngoài việc tránh đặt tên con cái trùng với tên ông bà tổ  tiên, việc đặt tên con trùng với bạn bè, người thân cũng hết sức tránh.  Nay quan niệm này có đổi khác. Trừ ông bà tổ tiên, những người thân của  cha mẹ, những người mà cha mẹ hâm mộ cũng thường được cha mẹ lấy tên đặt  cho con.
Các dấu hiệu giới tính trong tên gọi như “Văn” cho tên con trai và  “Thị” cho tên con gái dường như không còn là yếu tố bắt buộc nữa.
Là một hiện tượng ngôn ngữ - văn hóa tồn tại lâu bền với thời gian,  cách đặt tên luôn là một vấn đề gây nhiều tranh luận thú vị và chắc chắn  sẽ luôn có một vị trí nhất định trong đời sống văn hóa và ngôn ngữ của  người Việt chúng ta.